PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ LÀ GÌ

PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ LÀ GÌ?

(Trích đăng từ Blog Đạo Phật Nguyên Thuỷ của BS. Phạm Doãn)

Do bài viết khá dài nên trích đăng từng phần

PHẦN I

Phật Giáo Nguyên Thủy là gì?

Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian. Trong nhiều thế kỷ, Therevada đã là tôn giáo thống ngự tại lục điạ Đông Nam Á (Thái lan, Myanmar hay Burma, Cambodia, và Lào) và Srilanka.. Ngày nay số Phật tử Phật giáo Therevada lên đến con số trên 100 triệu trên toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây Therevada bắt đầu bám rễ ở Phương Tây.

WHAT IS THERAVADA BUDDHISM?

by John Bullitt

Việt dịch: Lê Văn Phúc, Minh Hạnh, Nguyễn văn Hòa

Trình bày: Minh Hạnh, Thiện Pháp, Chánh Hạnh và Như Trúc.

Nhiều tông phái Phật Giáo, Một Giáo Pháp và Giới Luật

Đức Phật – Đấng Giác Ngộ – gọi tôn giáo mà ngài thành lập là Giáo Pháp-và giới luật – học thuyết và giới luật. Nhằm cung cấp sư hỗ trợ cơ cấu xã hội để thực hành Giáo Pháp và Giới Luật (hay là nói gọn là Dhamma: Pháp) [ tiếng sankrit:Dharma), và cũng nhằm giữ gìn những giáo lý này cho hậu thế, Đức Phật đã thành lập tăng chúng gồm Tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ) – Sangha : Tăng chúng) – còn tồn tại đến ngày nay để lưu truyền giáo lý cuả ngài cho các thế hệ mai sau kể cả các cư sĩ cũng như các tu viện.

Khi Phật Pháp tiếp tục phát triển khắp Ấn độ sau khi Đức Phật viên tịch, nhiều cách hiểu khác nhau về giáo lý nguyên thuỷ phát sinh , dẫn đến sự chia rẻ trong nội bộ tăng chúng và xuất hiện có đến 18 phái Phật giáo khác nhau. Một trong những trường phái này cuối cùng đã dấy lên phong trào cải cách và tư xưng là Mahayana (Đại thưà :Cỗ xe lớn hơn). Và điều đó viện dẫn đến một trường phái khác kém quan trọng hơn là Hinayana (Tiểu thưà). mà ngày nay chúng ta gọi là Therevada, là sự tồn tại duy nhất cuả những trường phái phi-đại thừa xưa kia. Để tránh ngụ ý thiếu tôn trọng không hay khi dùng hai thuật ngữ Hinayana và Mahayana, ngày nay người ta dùng từ ngữ có tính trung lập hơn để chỉ hai hệ phái chính cuả Phật giáo.

Bởi vì Therevada về mặt lịch sử thống ngự nam Á, nên thường được gọi là Phật giáo Nam Tông, trong khi Mahayana, truyền nhập về phương bắc từ Ấn độ vào Trung Quốc, Tây Tạng, và Triều Tiên, nên gọi là Phật giáo Bắc Tông.

PHẦN II

PALI – NGÔN NGỮ CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THUỶ

Ngôn ngữ cuả các văn bản kinh điển Theravada là tiếng Pali (văn bản) căn cứ vào phương ngôn Trung Ấn-Aryan, có lẽ được sử dụng ở vùng Trung Ấn thời Đức Phật. Đai Đức Ananda, người em họ và người hầu cận cuả Đức Phật ghi nhớ các bài thuyết pháp (suttas) cuả Đức Phật và do đó là kho lưu trữ sống cuả các giáo lý này. Không lâu sau khi Đức Phật viên tịch ( 480 trước CN), 500 trưởng lão – trong đó cả Ngài Ananda – kết tập tất cả các bài pháp mà các Ngài đã nghe trong suốt 45 năm hành đạo cuả Đức Phật. Do đó hầu hết các bài pháp đều bắt đầu với lời dẫn, Như vầy tôi nghe (Evam me sutam)

Sau khi Đức Phật viên tịch, giáo lý cuả ngài tiếp tục được truyền miệng trong cộng đồng tăng lữ, giữ theo truyền thống truyền miệng có từ lâu trước thời Đức Phật. Vào khoảng 250 trứơc CN, tăng chúng đã sắp xếp hệ thống và biên soạn những giáo lý này thành ba phần:

– Tạng Luật – Vinaya Pitaka (rổ giới luật – các bản văn liên quan đến tập tục và qui luật cuả tăng chúng),

– Sutta Pitaka (rỗ các bài giảng – các bài thuyết pháp, lời khuyên dậy cuả Đức Phật cho các Đại đệ tử cuả ngài),

– Tạng Vi Diệu Pháp – Abhidhamma Pitaka (rổ học thuyết đặc biệt / cao hơn) – một phân tích tâm lý – triết học cuả Giáo Pháp).

Cả ba gộp lại được gọi là Tam Tạng Thánh Điển- Tipitaka, ba cái rổ – Tam Tạng.

Vào thế kỷ thứ ba tr.CN, các vị sư Tích lan (Sri Lanka) bắt đầu thực hiện biên soạn hàng loạt các bản chú giải về Tam Tạng; những bản chú giải này được tập hợp và dịch sang tiếng Pali bắt đầu từ thế kỷ thứ 5 trước CN. Tam Tạng cùng với các ngoài Chánh Tạng (các bản chú giải, biên niên v.v) tất cả hợp thành toàn bộ kho tàng giáo lý Nguyên Thủy – Therevada.

Tiếng Pali khởi nguyên là ngôn ngữ không có hệ thống mẫu tự riêng. Mãi cho đến khoảng năm 100 tr.CN thì Thánh Điển Tam Tạng mới được cố định bằng chữ viết lần đầu tiên, do các vị Tăng sĩ luật học đã viết chữ Pali bằng cách dùng các mẫu tự Sinhala cuả họ. Từ đó, Thánh Điển Tam Tạng đã được chuyển ngữ sang nhiều loại chữ viết ( như Devanagari, Thai, Burmese, Roman, Cyrillic, chỉ kể sơ một số). Mặc dù các bản dịch tiếng Anh tràn ngập, nhiều người nghiên cứu Phật Giáo Nguyên Thủy – Therevada thấy rằng việc học tiếng Pali – cho dù chỉ lỏm bỏm đôi chút – cũng làm cho sự thấu hiểu và ngoạn thưởng cuả họ về giáo lý cuả Đức Phật được sâu hơn rất nhều.

Không ai có thể minh chứng rằng Thánh Điển Tam Tạng có chứa bất cứ một từ nào thật sư thốt ra từ kim khẩu cuả Đức Phật trong lịch sử. Các Phật tử tu học Phật không hề cho đây là vấn đề. Không giống như kinh điển cuả các tôn giáo lớn trên thế giới, Tam Tạng không được coi là thánh kinh, như là sự khẳng định không sai lầm về chân lý thiêng liêng, do một đấng tiên tri khải ngộ, phải được chấp nhận bằng đức tin thuần tuý. Còn giáo lý của Đức Phật nhắm tới sự được thẩm định trước tiên, được thực hành trong cuộc sống cuả mình cho nên người ta phải tự phát hiện xem các giáo lý ấy, thực ra, có đem lại các kết quả mong đợi không. Chính chân lý mà ngôn ngữ trong Tam Tạng Kinh Điển chỉ dạy mới là tối quan trọng, chứ không phải chính bản thân ngôn ngữ. Dù rằng các học giả sẽ tiếp tục bàn cãi về nguốn gốc cuả những phần trong Tam Tạng Kinh Điển trong nhiều năm sắp tới (và như vậy hoàn toàn đánh mất cốt lõi cuả giáo lý), Tam Tạng Kinh Điển sẽ âm thầm tiếp tục phục vụ – như chúng đã từng trong bao thế kỷ – như là sự hướng đạo không thể thiếu được cho hằng triệu tín đồ trong việc mưu cầu Giác ngộ.